Bán lẻ tại Việt Nam: Sự chuyển dịch nhanh chóng sang bán lẻ đa kênh

Bán lẻ tại Việt Nam: Sự chuyển dịch nhanh chóng sang bán lẻ đa kênh

Admin 01/01/1970

The Top 5 Experiences of Ho Chi Minh City Nightlife

Ảnh minh họa

Khi những nỗ lực ngăn chặn COVID-19 sớm và mang tính quyết định có kết quả, Việt Nam được kỳ vọng sẽ vẫn là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á. Dựa trên nền tảng kinh tế mạnh mẽ và có khả năng phục hồi, người tiêu dùng Việt Nam cũng là một trong những người lạc quan nhất mặc dù đại dịch toàn cầu đang bùng phát. Nhưng điều đó không có nghĩa là bán lẻ sẽ trở lại kinh doanh như bình thường sau cuộc khủng hoảng. Trong vòng vài tuần ngắn ngủi, COVID-19 đã gây ra sự giãn cách xã hội trên khắp Việt Nam, cô lập những người trong nhà của họ và đóng cửa các bộ phận của nền kinh tế. Từ góc độ lĩnh vực bán lẻ, các sản phẩm từng là nhu cầu cơ bản nay đã trở thành nhu cầu ưu tiên của con người, giờ đây cần được phân phối mà không có mức độ tương tác cao giữa người với người như chúng ta đã quen. Cung cấp điều này đòi hỏi một sự thay đổi tư duy đối với nhiều người chơi bán lẻ. Trước khi COVID-19 ra đời, ngành bán lẻ không cần phải suy nghĩ quá nhiều về việc làm thế nào để phục vụ các nhu cầu cơ bản của con người: trọng tâm chủ yếu là đầu tư vào các dịch vụ phục vụ người tiêu dùng Việt Nam ở các mức độ tinh vi khác nhau và vạch rõ giá trị đề xuất và liên kết thương hiệu. Nhưng khi các nhà bán lẻ và người tiêu dùng đều tập trung vào các khía cạnh an toàn sau đợt bùng phát COVID-19, họ đã chuyển sang giảm thiểu các tương tác vật lý và tối đa hóa các tương tác kỹ thuật số. Điều này đã dẫn đến sự thay đổi nhanh chóng đối với các hành vi mua hàng đa kênh, vì các kênh thương mại điện tử ngày càng được sử dụng như một thay thế cho các hoạt động mua sắm vật chất.

Trong khi một số thay đổi này có thể là tạm thời, những thay đổi khác có thể không thể thay đổi được. Điều quan trọng nhất đã chuyển từ sự tiện lợi sang sự an toàn, từ chi phí sang tính khả dụng đơn giản và từ mong muốn sang nhu cầu cơ bản. Một số thay đổi trong hành vi mua hàng của người tiêu dùng Việt Nam, bao gồm tập trung nhiều hơn vào sức khỏe và sức khỏe và ăn uống tại nhà, và sự thay đổi trên diện rộng đối với thương mại điện tử, có khả năng trở thành những thay đổi lâu dài trong tương lai phía trước. Khi chúng ta chuyển sang thế giới hậu COVID, các nhà bán lẻ sẽ cần phải kiểm tra lại sở thích và thói quen của người tiêu dùng, đồng thời xem xét lại các chiến lược chanel của họ để xác định lại trải nghiệm của người tiêu dùng và phát triển theo cách bình thường mới.


Khả năng phục hồi kinh tế khi đối mặt với COVID-19

Bất chấp sự bùng phát của đại dịch COVID-19, Việt Nam được kỳ vọng sẽ vẫn là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất ở Đông Nam Á. Điều này phần lớn là nhờ vào những nỗ lực ngăn chặn sớm và dứt khoát của Chính phủ Việt Nam, cũng như các nền tảng kinh tế mạnh mẽ và có khả năng phục hồi.

Do hoạt động kinh tế giảm sút và những rủi ro tiêu cực do đại dịch COVID-19 gây ra, tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) của Việt Nam dự kiến ​​sẽ giảm mạnh từ 7% năm 2019 xuống còn 4,8% năm 2020, (xem Hình 1) . Trước đó, trong quý đầu tiên của năm 2020, tăng trưởng kinh tế đã giảm tốc xuống mức thấp nhất trong 10 năm là 3,8%, giảm so với mức 6,8% của cùng kỳ năm 2019.

Hình 1. Tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam (2010-2020F) (Nguồn: trong ảnh)

Các biện pháp hạn chế đi lại và các biện pháp ngăn chặn khác do chính quyền áp dụng để làm chậm sự lây lan của COVID-19 đã dẫn đến tiêu thụ nội địa thấp hơn và đình trệ tăng trưởng trong ngành nông nghiệp do nhu cầu xuất khẩu thấp hơn và xâm nhập mặn nghiêm trọng ở Đồng bằng sông Cửu Long. Lĩnh vực sản xuất cũng đang đối mặt với sự gián đoạn trong chuỗi cung ứng, trong khi tăng trưởng trong lĩnh vực dịch vụ - lĩnh vực chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của đại dịch - giảm một nửa xuống còn 3,2% trong quý đầu tiên của năm 2020, giảm từ 6,5% trong cùng kỳ năm 2019.

Tuy nhiên, trong tương lai, Việt Nam được kỳ vọng sẽ vẫn là một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất không chỉ trong khu vực Đông Nam Á mà còn trong khu vực Châu Á Thái Bình Dương rộng lớn hơn bất chấp sự suy thoái kinh tế ngắn hạn do bùng phát COVID-19 (xem Hình 2).

Hình 2. Dự báo tăng trưởng GDP cho một số nền kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (Nguồn: trong ảnh)


COVID-19 đang thay đổi người tiêu dùng Việt Nam như thế nào?

Đại dịch COVID-19 đã dẫn đến việc tập trung nhiều hơn vào sức khỏe và sức khỏe và ăn uống tại nhà, cũng như sự thay đổi trên diện rộng đối với thương mại điện tử. Khi người tiêu dùng Việt Nam đã quen với những thói quen này, nhiều thói quen trong số đó có khả năng trở thành những thay đổi vĩnh viễn trong thế giới hậu COVID.

Seven opportunity areas for retailers and suppliers during COVID-19

Ảnh minh họa

Với sự bùng phát của đại dịch COVID-19, nhu cầu hàng tiêu dùng trong nước có tốc độ tăng trưởng thấp nhất kể từ năm 2014 ở mức 9,8% trong hai tháng đầu năm 2020, so với 14,4% của cùng kỳ năm ngoái. Tuy nhiên, Việt Nam được kỳ vọng sẽ xây dựng trên đà mở rộng nhanh chóng lĩnh vực bán lẻ, vốn đã có mức tăng trưởng liên tiếp hàng năm trong thập kỷ qua (xem Hình 3). Đặc biệt, tâm lý người tiêu dùng vẫn lạc quan mặc dù COVID-19, trong đó người tiêu dùng Việt Nam được xếp hạng lạc quan nhất trên toàn cầu.

Hình 3. Doanh thu bán lẻ hàng hóa và dịch vụ (2010-2019) (Nguồn: trong ảnh)

Ở nhà, giữ gìn sức khỏe

Với việc thực hiện các biện pháp tạo khoảng cách xã hội trên khắp Việt Nam, việc ăn uống ở ngoài phần lớn đã được thay thế bằng các món ăn mang đi và ăn ở nhà. Điều này đã dẫn đến sự gia tăng doanh số bán thực phẩm tiện lợi và dụng cụ hỗ trợ nấu ăn, bao gồm các danh mục sản phẩm như thực phẩm đông lạnh, thực phẩm đóng hộp, mì gói và dầu ăn. Khi người tiêu dùng bắt đầu quan tâm nhiều hơn đến việc nấu nướng tại nhà, cũng đã có sự gia tăng phổ biến của các trang web dạy nấu ăn tại nhà trực tuyến với những hình ảnh đẹp mắt về các bữa ăn nấu tại nhà. Chẳng hạn, các nhóm Facebook như “Yeu bep”, “Ghet bep, khong nghien nha” thu hút hàng nghìn thành viên mới mỗi ngày10.

Ngay cả khi đại dịch giảm bớt, nhiều thói quen và hành vi này được cho là vẫn tồn tại. Ví dụ, một nghiên cứu cho thấy người tiêu dùng châu Á khó có thể quay trở lại thói quen thường xuyên ăn tối ở nhà hàng cũ: đặc biệt, 62% người tiêu dùng Việt Nam cho biết họ sẽ ăn ở nhà thường xuyên hơn so với trước khi bùng phát dịch11. Điều này báo hiệu sự chuyển dịch từ "lối sống di chuyển" sang xu hướng "tiêu dùng an toàn tại nhà" và có ý nghĩa không chỉ đối với các nhà hàng và nhà điều hành thực phẩm và đồ uống, mà còn cả cách các nhà bán lẻ nên dự trữ các kệ hàng của họ để phù hợp với những thay đổi mới về nhu cầu sản phẩm.

Khi sự bùng phát COVID-19 tăng cường sự tập trung của người tiêu dùng vào sức khỏe và tinh thần của họ, các sản phẩm sức khỏe và dinh dưỡng, chẳng hạn như sữa bột và sữa chua đặc biệt, cũng như các sản phẩm vệ sinh cá nhân và các sản phẩm tẩy rửa gia dụng khác, cũng chứng kiến ​​sự gia tăng nhanh chóng về nhu cầu12. Ví dụ, nước rửa tay và xà phòng xà phòng đã có mức tăng trưởng doanh số bán hàng gấp đôi và thậm chí gấp ba con số13, vì 87% người tiêu dùng Việt Nam hiện nay rửa tay thường xuyên bằng xà phòng14.

Ngoài ra, các danh mục sản phẩm vệ sinh cá nhân như nước súc miệng, sữa tắm và khăn giấy mặt đã chứng kiến ​​mức tiêu thụ tăng vọt lần lượt là 78%, 45% và 35% do người tiêu dùng Việt Nam thực hiện các biện pháp phòng ngừa bổ sung để bảo vệ mình khỏi COVID-19 thông qua việc tăng cường rửa mặt. và làm sạch15. Khi một số người tiêu dùng mới bắt đầu mua những mặt hàng này và dần quen với việc sử dụng chúng trong nhiều dịp sử dụng hơn, chúng ta cũng có khả năng chứng kiến ​​những thay đổi hành vi lâu dài đối với những danh mục sản phẩm này có thể tồn tại ngay cả sau đại dịch.

Chuyển dịch trên diện rộng sang thương mại điện tử

Dành trung bình 6 giờ 42 phút mỗi ngày trên Internet, người tiêu dùng Việt Nam - đặc biệt là người tiêu dùng trẻ thành thị, vốn quen thuộc với công nghệ số và lối sống hiện đại, bận rộn - đã khá quen với thương mại điện tử. Tuy nhiên, mặc dù việc áp dụng thương mại điện tử ngày càng tăng, toàn cảnh bán lẻ của Việt Nam vẫn chủ yếu là hoạt động ngoại tuyến. Một cuộc khảo sát gần đây cho thấy 98% nhà bán lẻ cho rằng các cửa hàng truyền thống và kênh phân phối chiếm phần lớn doanh thu bán hàng của họ, chỉ 2% trích dẫn kênh thương mại điện tử.

Xu hướng tương tự cũng có thể được quan sát thấy khi so sánh dữ liệu bán hàng tại cửa hàng và không dựa trên cửa hàng, trong đó doanh số bán hàng tại cửa hàng tiếp tục chiếm khoảng 97% doanh số bán lẻ và doanh số bán hàng không tại cửa hàng (bao gồm cả thương mại điện tử) chỉ đóng góp khoảng 3% (xem Hình 4). Trước khi COVID-19 bắt đầu vào năm 2019, các danh mục sản phẩm như sản phẩm điện tử và truyền thông, cũng như sản phẩm thời trang, chiếm hai nguồn quan trọng hàng đầu trong tổng doanh thu thương mại điện tử tại Việt Nam, lần lượt là 27% và 24%, trong khi thực phẩm và các sản phẩm chăm sóc cá nhân chỉ chiếm 16%.

Tuy nhiên, sự bùng phát COVID-19 đã thúc đẩy một sự thay đổi căn bản, trên diện rộng đối với các kênh thương mại điện tử - cả trên phạm vi nhân khẩu học người tiêu dùng rộng hơn ngoài cơ sở người tiêu dùng trẻ thành thị và trên nhiều danh mục sản phẩm hơn. Ví dụ như kết quả của đại dịch, hơn 50% người tiêu dùng Việt Nam đã giảm tần suất đến siêu thị, cửa hàng tạp hóa và chợ ẩm thực, trong khi 25% trong số họ tăng cường mua sắm trực tuyến.

Hình 4. Phân chia doanh số bán lẻ thành doanh số bán hàng tại cửa hàng và bán hàng không tại cửa hàng (Nguồn: trong ảnh)


Phân tích phân khúc

Concrete Impact of COVID-19 in Food Retail Industry

Ảnh minh họa

Mức độ cao hơn của các hành vi mua hàng đa kênh đã được quan sát thấy do bùng phát COVID-19, khi người tiêu dùng muốn tích trữ hàng tạp hóa và nhu cầu thiết yếu hàng ngày. Các nhà bán lẻ nên tận dụng động lực này để thúc đẩy mở rộng và tăng tỷ lệ thâm nhập khi chúng ta chuyển sang thế giới hậu COVID.

Đại dịch COVID-19 đã khiến chi tiêu của người tiêu dùng Việt Nam cho các sản phẩm FMCG tăng đột biến bất thường trong quý đầu tiên của năm 2020, khi lĩnh vực này đạt mức tăng trưởng hai con số lần đầu tiên sau bảy năm20. Điều này một phần là do hành vi tích trữ, khi người tiêu dùng đổ xô đi mua các sản phẩm thiết yếu, chẳng hạn như thực phẩm tươi sống và hàng tiêu dùng đóng gói thiết yếu, để đối phó với các biện pháp làm xa rời xã hội.

Tuy nhiên, sở thích đối với các kênh bán lẻ khác nhau sẽ khác nhau tùy theo khu vực. Ở các khu vực thành thị, nơi có nhiều hình thức bán lẻ lớn hơn, kích thước giỏ hàng lớn hơn do người tiêu dùng tìm cách hạn chế việc đi lại và tiếp xúc. Tuy nhiên, ở khu vực nông thôn, nơi các kênh thương mại truyền thống vẫn chiếm ưu thế, người tiêu dùng đã thực hiện nhiều chuyến đi hơn. Nhìn chung, tất cả các kênh đều chứng kiến ​​tốc độ tăng trưởng nhanh chóng - một dấu hiệu cho thấy đại dịch đã vô tình khuyến khích hành vi mua sắm đa kênh.

Các nhà bán lẻ tạp hóa truyền thống

Bất chấp sự mở rộng nhanh chóng của các cửa hàng thương mại hiện đại trên khắp Việt Nam, các nhà bán lẻ tạp hóa truyền thống vẫn có vai trò quan trọng trong thị trường bán lẻ nói chung và tiếp tục thể hiện sự tăng trưởng ổn định. Năm 2019, doanh thu bán hàng tạp hóa truyền thống tăng 4%, đạt tổng giá trị 1.027 nghìn tỷ đồng (xem Hình 5).

Đối với nhiều người tiêu dùng nông thôn và phân khúc người tiêu dùng thành thị có thu nhập thấp hơn, những người cần lập ngân sách hàng ngày cho thực phẩm và mua hàng với số lượng nhỏ, các nhà bán lẻ tạp hóa truyền thống, chẳng hạn như chợ địa phương và cửa hàng bán lẻ, là một lựa chọn thay thế thuận tiện và giá cả phải chăng cho thương mại hiện đại các cửa hàng, chẳng hạn như siêu thị, thường được cho là đắt hơn.

Một quan sát gần đây là một số nhà bán lẻ tạp hóa truyền thống cũng đã bắt đầu cải tiến cơ sở hạ tầng cửa hàng của họ và tăng chủng loại sản phẩm của họ để bao gồm chất lượng sản phẩm cao hơn, nhằm thu hút người tiêu dùng mong muốn trải nghiệm bán lẻ hiện đại.

Hình 5. Số lượng cửa hàng, diện tích sàn và tăng trưởng doanh số cho các nhà bán lẻ tạp hóa truyền thống (2014-2019) (Nguồn: trong ảnh)

Cửa hàng tiện lợi

Các cửa hàng tiện lợi đã nhanh chóng phát triển trên khắp Việt Nam trong những năm gần đây, đạt quy mô thị trường 4,4 nghìn tỷ đồng nhờ tốc độ tăng trưởng doanh thu ổn định là 18% trong năm 2019 (xem Hình 6). Các công ty chủ chốt bao gồm Family Mart, Circle K và B’s Mart, với thị phần lần lượt là 21,4%, 20,7% và 9,6 %.

Đối với cả các cửa hàng tiện lợi và các nhà bán lẻ thương mại truyền thống, chẳng hạn như cửa hàng bán lẻ và các chợ truyền thống khác, việc có một vị trí trong khu vực có lượng người lui tới cao là chìa khóa quan trọng. Tuy nhiên, các cửa hàng tiện lợi khác biệt với các nhà bán lẻ thương mại truyền thống bằng nhận thức “hợp thời trang” hơn, cung cấp các tiện nghi hiện đại, nhiều loại bữa ăn sẵn và các phương thức thanh toán kỹ thuật số, chẳng hạn như ví điện tử, thu hút người tiêu dùng trẻ thành thị.

COVID-19 mang khách hàng mới đến cửa hàng tiện lợi

Đại dịch COVID-19 đã khuyến khích một số lượng đáng kể người tiêu dùng thường không mua sản phẩm trực tuyến hoặc trong các cửa hàng tiện lợi bắt đầu thực hiện các giao dịch đầu tiên của họ. Kết quả là, cả mua hàng trực tuyến và mua hàng tại cửa hàng tiện lợi đều đạt mức cao nhất về lượng người mua sắm trong tháng 3 năm 2020.
Đối với những người sở hữu cửa hàng tiện lợi, điều này thể hiện cơ hội tận dụng động lực đang phát triển để thúc đẩy mở rộng bằng cách tăng tỷ lệ thâm nhập giữa những người tiêu dùng mới và đầu tư để giữ lòng trung thành của họ ngay cả sau đại dịch.

Hình 6. Số lượng cửa hàng, diện tích sàn và tăng trưởng doanh số cho các cửa hàng tiện lợi (2014-2019) (Nguồn: trong ảnh)

Đại siêu thị và siêu thị

Trước khi COVID-19 ra đời, phân khúc đại siêu thị tại Việt Nam dường như đã ổn định phần nào về mặt mở rộng - thể hiện rõ qua số lượng cửa hàng và diện tích sàn - và doanh số giảm nhẹ khoảng 0,2% trong năm 2019 (xem Hình 7).

Một lý do cho điều này có thể là do các đại siêu thị thường không nằm gần các khu dân cư, với diện tích mặt bằng lớn mà họ yêu cầu và chi phí thuê cao hơn ở những khu vực này, người tiêu dùng thành thị thường thích siêu thị và cửa hàng tiện lợi vì những vị trí thuận tiện của họ. Các chuyến thăm đến các đại siêu thị thường được thực hiện khi cần mua khối lượng lớn hơn, chẳng hạn như trong các mùa lễ. Các công ty chủ chốt trong phân khúc này bao gồm Big C, Lotte Mart, AEON, Saigon Co.op và E-Mart - trong đó Big C của Thái Lan thống lĩnh thị trường với 57,6% thị phần.

Mặt khác, phân khúc siêu thị do các công ty trong nước thống lĩnh như Saigon Co.op và Bách Hóa Xanh, đang dẫn đầu với thị phần lần lượt là 43% và 14%. Sự tăng trưởng nhất quán của phân khúc trong bốn năm qua (xem Hình 8) phần lớn có thể là do sự hiểu biết sâu sắc về thị trường địa phương của họ, cũng như sự phổ biến ngày càng tăng của các sản phẩm nhãn riêng.

Hình 7. Số lượng cửa hàng, diện tích sàn và tăng trưởng doanh số cho các đại siêu thị (2014-2019) (Nguồn: trong ảnh)

Hình 8: Số lượng cửa hàng, diện tích sàn và tăng trưởng doanh số bán hàng của các siêu thị (2014-2019)  (Nguồn: trong ảnh)

Thương mại điện tử

Là một trong những nền kinh tế kỹ thuật số phát triển nhanh nhất trong khu vực, Việt Nam có một thị trường thương mại điện tử năng động, thu hút sự chú ý của các đối thủ trong và ngoài nước, những người đã rót ước tính 1 tỷ USD vào lĩnh vực này trong vòng 4 năm. từ năm 2016 đến năm 2019.

Hiện nay, hai thành phố lớn nhất của Việt Nam - Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh - chiếm khoảng 70% tổng giao dịch thương mại điện tử. Các công ty chủ chốt bao gồm Lazada, Shopee, Tiki, Thegioididong và Sendo, trong đó Shopee chiếm vị trí số một với khoảng 16,8% thị phần tổng lưu lượng truy cập web hàng tháng.

Tuy nhiên, các sản phẩm tạp hóa không nằm trong số các giao dịch mua hàng trực tuyến phổ biến nhất trong thời kỳ trước COVID-19: các sản phẩm điện tử và truyền thông, cũng như các sản phẩm thời trang, là hai danh mục thương mại điện tử được mua nhiều nhất.

E-commerce becomes the key factor in Vietnam retail industry - VNExplorer

Ảnh minh họa

COVID-19 thúc đẩy quá trình mua sắm hàng tạp hóa trực tuyến

Sự bùng phát COVID-19 đã giới thiệu thương mại điện tử đến một số lượng lớn người tiêu dùng Việt Nam, những người trước đây không quan tâm đến việc mua sắm hàng tạp hóa trực tuyến và thanh toán điện tử. Bằng cách mua sắm trực tuyến, họ có được những lợi ích của việc không cần đeo khẩu trang hoặc phải tuân thủ các nguyên tắc về cách nhìn xa khi mua sắm thực tế hoặc khi đứng xếp hàng.

Điều này đã dẫn đến sự gia tăng nhu cầu trực tuyến đối với các sản phẩm tạp hóa, vốn thường không phải là sản phẩm chủ lực của lĩnh vực thương mại điện tử. Ví dụ, trên nền tảng của Shopee, thời gian mà người tiêu dùng Việt Nam dành để mua sắm đã tăng hơn 25% sau khi bùng phát COVID-19, khi họ tìm mua hàng tạp hóa và các mặt hàng thiết yếu hàng ngày khác. Hầu hết các giao dịch mua phổ biến trên nền tảng bao gồm các mặt hàng như tẩy trang, điện thoại thông minh, sữa, tã, cũng như nồi và chảo.

Trước nhu cầu ngày càng tăng về bán lẻ tạp hóa trực tuyến, một số công ty bán lẻ phi truyền thống cũng đã nắm bắt cơ hội để thâm nhập thị trường. Ví dụ, công ty đặt xe Grab đã ra mắt nền tảng thương mại điện tử tạp hóa, GrabMart, tại Việt Nam vào ngày 23 tháng 3 năm 2020. Trong tuần thứ hai, công ty tiết lộ rằng đơn đặt hàng đã tăng 91% so với tuần trước, với mì gói sữa, sữa đậu nành, soda và xúc xích lợn nằm trong số 5 mặt hàng được tìm kiếm nhiều nhất.

Thật vậy, thói quen mua sắm trực tuyến mới mà nhiều người tiêu dùng Việt Nam đã chọn trong thời kỳ COVID-19 có thể trở thành những thay đổi vĩnh viễn mà các nhà thương mại điện tử cần phải thích ứng. Tuy nhiên, cần phải vượt qua một số thách thức về cơ sở hạ tầng. Chẳng hạn, nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp tục thận trọng trong việc mở rộng kênh phân phối thương mại điện tử do thiếu bí quyết, cũng như lo ngại lỗ hoặc không đủ khả năng đối phó.

Hướng về tương lai

Đại dịch COVID-19 đã thúc đẩy Việt Nam chuyển hướng sang hành vi mua hàng đa kênh. Mặc dù nhiều thương hiệu bán lẻ đã bắt tay vào chuyển đổi kỹ thuật số và các sáng kiến ​​thương mại điện tử ngay cả trước khi đại dịch xảy ra, nhưng các biện pháp đóng cửa gần đây và các biện pháp ngăn cách xã hội đã thúc đẩy họ tìm cách thu hút người tiêu dùng trực tuyến tích cực và hiệu quả hơn. Khi một tỷ lệ đáng kể chi tiêu của người tiêu dùng chuyển sang kỹ thuật số, cả các nhà bán lẻ truyền thống và thương mại điện tử sẽ cần phải suy nghĩ lại về chiến lược trải nghiệm người tiêu dùng của họ trong điều kiện bình thường mới.

Mặc dù chúng ta có thể mong đợi một số mức độ quan tâm mới đến mua sắm truyền thống khi việc khóa sổ cuối cùng được dỡ bỏ, các nhà bán lẻ sẽ cần hiểu rằng tâm lý và thói quen của người tiêu dùng có thể đã phát triển vĩnh viễn. Để bắt đầu, chúng tôi hy vọng sẽ thấy một số người tiêu dùng không thích tiếp xúc vật lý trong môi trường cửa hàng, cũng như tập trung nhiều hơn vào sự tiện lợi và trải nghiệm kỹ thuật số.

Đối với các nhà bán lẻ truyền thống, điều này có nghĩa là cần phải đầu tư vào các công nghệ kỹ thuật số phù hợp để tạo ra trải nghiệm người tiêu dùng tối ưu. Điều này có thể bao gồm, ví dụ, các khái niệm bán lẻ không người lái, cũng như việc sử dụng công nghệ quét và chuyển cho phép người tiêu dùng quét sản phẩm và thanh toán mua hàng thông qua các phương tiện không tiếp xúc.

Về mặt thương mại điện tử, người chơi sẽ cần phải kiểm tra cách họ có thể làm rõ hơn đề xuất thực hiện của họ. Mặc dù cơn sốt mua hàng trực tuyến do COVID gây ra đã dẫn đến một số trục trặc ban đầu trong việc giao hàng và thực hiện, các nhà bán lẻ sẽ cần giải quyết vấn đề này trong dài hạn. Cụ thể, họ sẽ cần tập trung vào việc đảm bảo tính minh bạch và linh hoạt, chẳng hạn bằng cách cho phép người tiêu dùng theo dõi việc giao hàng của họ hoặc chọn khoảng thời gian giao hàng của riêng họ.

E-Commerce Credit Card Processing Services - Credit Card Processing Services

Ảnh minh họa

Khi hành trình của người tiêu dùng Việt Nam chuyển đổi để bao gồm một số lượng lớn hơn các điểm tiếp xúc trực tuyến, thương mại điện tử và những người chơi truyền thống cũng nên tìm cơ hội hợp tác trong các hoạt động tiếp thị đa kênh, đồng thời tăng cường hiểu biết của nhau về mức độ nhạy cảm với giá của người tiêu dùng và khái niệm về thương hiệu kháng nghị đã thay đổi do đại dịch COVID-19.

Một số nhà bán lẻ sẽ trở nên yếu hơn sau cuộc khủng hoảng - trong khi những người khác sẽ nổi lên mạnh mẽ hơn nhiều. Cuối cùng, cuộc khủng hoảng này báo hiệu một sự thay đổi nhanh chóng và không thể đảo ngược đối với bán lẻ đa kênh có khả năng định nghĩa lại vĩnh viễn trải nghiệm của người tiêu dùng. Không có ngoại lệ, mọi người chơi sẽ cần phải thích nghi, thay đổi và đổi mới các phương pháp của họ để vẫn phù hợp cho ngày hôm nay và trong tương lai.

Bài viết liên quan

Cách đơn giản để gia tăng chất lượng sản phẩm

Nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những điều quan trọng nhất để đạt được tăng trưởng doanh số bán hàng và lợi nhuận trong dài hạn nhờ vào việc đạt được sự hài lòng của khách hàng và người tiêu dùng.

Lợi ích đích thực từ việc chứng nhận ISO

Những lợi ích mà chứng nhận hệ thống quản lý ISO (chứng nhận ISO) đem lại là gì? Và liệu nó có thật sự hữu ích cho công ty/doanh nghiệp? Hãy cùng tìm hiểu trong bài dưới đây.

Công bố hợp quy vật liệu xây dựng - Đưa vật liệu xây dựng sản xuất, nhập khẩu vào thị trường Việt Nam

Như thông tin đã biết, sản phẩm, hàng hóa trước khi đưa ra thị trường cần phải đạt yêu cầu về tiêu chuẩn (công bố hợp chuẩn/ công bố hợp quy sản phẩm) theo quy định của pháp luật. Điều này cũng là bắt buộc đối với loại hàng hóa vật liệu xây dựng.

Công bố hợp chuẩn: Hồ sơ và thủ tục chi tiết

Đứng trước những yêu cầu ngàng càng gắt gao của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hóa bắt buộc phải có những bước chuyển mình để đáp ứng được nhu cầu, mong đợi của người tiêu dùng. Trong đó, Chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường hiện nay là vấn đề cốt lõi. Sản phẩm, hàng hóa trước khi được đưa ra lưu thông trên thị trường, bên cạnh các quy định pháp luật về quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm, nhãn mác hàng hóa,... thì việc thực hiện công bố cũng nằm trong các yêu cầu về đảm bảo chất lượng. Việc thực hiện công bố phù hợp tiêu chuẩn áp dụng (công bố hợp chuẩn) đem lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, cho người tiêu dùng và cả các cơ quan quản lý, chức năng.  Cùng ISOCERT tìm hiểu thêm về Công bố hợp chuẩn và các bước thực hiện để giúp doanh nghiệp công bố dễ dàng, nhanh chóng hơn.

Hiệu lực của bản tự công bố sản phẩm là bao lâu?

Trong xã hội hiện đại, việc đa dạng hóa các sản phẩm nhằm mở rộng thị trường kinh doanh là điều mà mọi doanh nghiệp hướng tới để phát triển và phát triển bền vững. Số lượng hàng hóa, sản phẩm tăng nhanh chóng mặt cũng đồng thời phải song hành với chất lượng của chúng được đảm bảo và cải tiến không ngừng nghỉ. Bởi lẽ người tiêu dùng là trung tâm cốt lõi của môi trường kinh doanh. Và thực tế là tất cả chúng ta đều mong muốn được trải nghiệm và sử dụng những sản phẩm tốt nhất và hơn thế nữa.

Tin tức và Sự kiện liên quan

ISOCERT trao chứng nhận ISO 9001, ISO 14001, ISO 45001 cho Công ty CP Dịch vụ Clean Sài Gòn

ISOCERT cấp chứng nhận ISO 9001, ISO 14001, ISO 45001 cho Công ty CP Dịch vụ Clean Sài Gòn, hoạt động trong lĩnh vực vệ sinh công nghiệp.

Tổng Kết Chương Trình Đào Tạo Năng Lực Quản Lý Trong Ngành Sản Xuất

Chương trình đào tạo năng lực quản lý trong ngành sản xuất do ISOCERT tổ chức đã diễn ra thành công tốt đẹp, với sự tham gia và hưởng ứng của hơn 100 anh/chị quản lý của các doanh nghiệp

ISOCERT Đánh Giá ISO 9001:2015 Tại Công Ty Cổ Phần Phụ Gia PVC Xanh

Buổi đánh giá giúp Công ty CP Phụ Gia PVC Xanh thiết lập hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001, xây dựng nền tảng cho việc đạt chứng nhận sau này

ISOCERT Đánh Giá ISO 9001 Tại Công Ty Cổ Phần Starpoly

Thực hiện đánh giá ISO 9001 là bước tiến quan trọng, giúp Công ty Cổ phần Starpoly thành công hơn trong tương lai

Thông báo chuyển đổi ISO 22003-1:2022, thay thế ISO/TS 22003:2013

Chuyển đổi từ tiêu chuẩn ISO/TS 22003:2013 sang ISO 22003-1:2023 sẽ có tác động đến khách hàng làm chứng nhận ISO 22000, HACCP

Bình luận

! Nhập đánh giá không được để trống

! Họ và tên không được để trống

! Số điện thoại không được để trống

Bài viết liên quan

Cách đơn giản để gia tăng chất lượng sản phẩm

Nâng cao chất lượng sản phẩm là một trong những điều quan trọng nhất để đạt được tăng trưởng doanh số bán hàng và lợi nhuận trong dài hạn nhờ vào việc đạt được sự hài lòng của khách hàng và người tiêu dùng.

Lợi ích đích thực từ việc chứng nhận ISO

Những lợi ích mà chứng nhận hệ thống quản lý ISO (chứng nhận ISO) đem lại là gì? Và liệu nó có thật sự hữu ích cho công ty/doanh nghiệp? Hãy cùng tìm hiểu trong bài dưới đây.

Công bố hợp quy vật liệu xây dựng - Đưa vật liệu xây dựng sản xuất, nhập khẩu vào thị trường Việt Nam

Như thông tin đã biết, sản phẩm, hàng hóa trước khi đưa ra thị trường cần phải đạt yêu cầu về tiêu chuẩn (công bố hợp chuẩn/ công bố hợp quy sản phẩm) theo quy định của pháp luật. Điều này cũng là bắt buộc đối với loại hàng hóa vật liệu xây dựng.

Công bố hợp chuẩn: Hồ sơ và thủ tục chi tiết

Đứng trước những yêu cầu ngàng càng gắt gao của nền kinh tế thị trường, nền kinh tế hàng hóa bắt buộc phải có những bước chuyển mình để đáp ứng được nhu cầu, mong đợi của người tiêu dùng. Trong đó, Chất lượng sản phẩm, hàng hóa lưu thông trên thị trường hiện nay là vấn đề cốt lõi. Sản phẩm, hàng hóa trước khi được đưa ra lưu thông trên thị trường, bên cạnh các quy định pháp luật về quy trình sản xuất, chất lượng sản phẩm, nhãn mác hàng hóa,... thì việc thực hiện công bố cũng nằm trong các yêu cầu về đảm bảo chất lượng. Việc thực hiện công bố phù hợp tiêu chuẩn áp dụng (công bố hợp chuẩn) đem lại rất nhiều lợi ích cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, cho người tiêu dùng và cả các cơ quan quản lý, chức năng.  Cùng ISOCERT tìm hiểu thêm về Công bố hợp chuẩn và các bước thực hiện để giúp doanh nghiệp công bố dễ dàng, nhanh chóng hơn.

Hiệu lực của bản tự công bố sản phẩm là bao lâu?

Trong xã hội hiện đại, việc đa dạng hóa các sản phẩm nhằm mở rộng thị trường kinh doanh là điều mà mọi doanh nghiệp hướng tới để phát triển và phát triển bền vững. Số lượng hàng hóa, sản phẩm tăng nhanh chóng mặt cũng đồng thời phải song hành với chất lượng của chúng được đảm bảo và cải tiến không ngừng nghỉ. Bởi lẽ người tiêu dùng là trung tâm cốt lõi của môi trường kinh doanh. Và thực tế là tất cả chúng ta đều mong muốn được trải nghiệm và sử dụng những sản phẩm tốt nhất và hơn thế nữa.

Tin tức và Sự kiện liên quan

ISOCERT trao chứng nhận ISO 9001, ISO 14001, ISO 45001 cho Công ty CP Dịch vụ Clean Sài Gòn

ISOCERT cấp chứng nhận ISO 9001, ISO 14001, ISO 45001 cho Công ty CP Dịch vụ Clean Sài Gòn, hoạt động trong lĩnh vực vệ sinh công nghiệp.

Tổng Kết Chương Trình Đào Tạo Năng Lực Quản Lý Trong Ngành Sản Xuất

Chương trình đào tạo năng lực quản lý trong ngành sản xuất do ISOCERT tổ chức đã diễn ra thành công tốt đẹp, với sự tham gia và hưởng ứng của hơn 100 anh/chị quản lý của các doanh nghiệp

ISOCERT Đánh Giá ISO 9001:2015 Tại Công Ty Cổ Phần Phụ Gia PVC Xanh

Buổi đánh giá giúp Công ty CP Phụ Gia PVC Xanh thiết lập hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO 9001, xây dựng nền tảng cho việc đạt chứng nhận sau này

ISOCERT Đánh Giá ISO 9001 Tại Công Ty Cổ Phần Starpoly

Thực hiện đánh giá ISO 9001 là bước tiến quan trọng, giúp Công ty Cổ phần Starpoly thành công hơn trong tương lai

Thông báo chuyển đổi ISO 22003-1:2022, thay thế ISO/TS 22003:2013

Chuyển đổi từ tiêu chuẩn ISO/TS 22003:2013 sang ISO 22003-1:2023 sẽ có tác động đến khách hàng làm chứng nhận ISO 22000, HACCP

0976389199
scrollTop
zalo
0976389199 Gọi báo giá zalo Zalo