Vai trò của dịch vụ trong nền kinh tế hiện đại
Ở bất kỳ quốc gia nào, sự phát triển kinh tế phụ thuộc vào ngành dịch vụ, sự tăng trưởng và phát triển của ba thành phần của nền kinh tế. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, khu vực dịch vụ đang phát triển với tốc độ rất nhanh ở các nước đang phát triển và đang đóng góp một phần lớn về sản lượng, thu nhập và việc làm. Thậm chí, năng suất trên mỗi lao động trong khu vực dịch vụ đang trở nên cao hơn so với khu vực nông nghiệp và công nghiệp. Khu vực dịch vụ đã chiếm ưu thế ở các nước phát triển. Nếu khu vực nông nghiệp trì trệ, các hoạt động dịch vụ mới sẽ xuất hiện và bổ sung vào khu vực dịch vụ làm cho nền kinh tế tăng trưởng.
Tầm quan trọng của ngành dịch vụ có thể được đánh giá bằng những đóng góp của nó đối với các khía cạnh khác nhau của nền kinh tế.
Kinh doanh bao gồm cả thương mại trong nước và ngoại thương. Thương mại như một hoạt động của ngành dịch vụ tạo điều kiện thuận lợi cho việc trao đổi hàng hoá và dịch vụ giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Thương mại trong nước đề cập đến việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ với trong nước. Cung cấp thu nhập và việc làm cho những người đã tham gia vào các hoạt động này. Ngoại thương có vai trò to lớn đối với sự phát triển của đất nước. Nhập khẩu máy móc, thiết bị mà trong nước chưa sản xuất được là chủ yếu. Những hàng nhập khẩu giúp tạo ra năng lực mới trong một số dây chuyền sản xuất hoặc mở rộng công suất trong các dây chuyền sản xuất khác được gọi là nhập khẩu phát triển. Hàng nhập khẩu được thực hiện để sử dụng hết khả năng sản xuất được gọi là hàng nhập khẩu bảo dưỡng.
Tài chính với tư cách là một hoạt động thuộc lĩnh vực dịch vụ, đóng một vai trò quan trọng trong việc thực hiện bất kỳ hoạt động kinh tế nào. Tài chính đề cập đến các quỹ từ các nguồn tiền tệ theo yêu cầu của các cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ. Mọi người cần tiền để đáp ứng yêu cầu hiện tại của họ hoặc chi phí hàng ngày để mua tư liệu sản xuất. Một nhà kinh doanh cần có quỹ để trả lương và tiền công, để mua nguyên vật liệu thô, để mua máy móc mới hoặc thay thế một cái cũ, v.v. Chính phủ cần có quỹ để cung cấp các dịch vụ khác nhau cho đối tượng của mình. Các tổ chức tài chính cung cấp vốn cho nhiều nhóm người khác nhau cho nhiều hoạt động khác nhau. Trong quá trình này, các hoạt động của khu vực dịch vụ cung cấp thu nhập và việc làm cho người dân của một quốc gia.
Trong những ngày trước, khu vực này chịu trách nhiệm phân phối sản lượng của khu vực sơ cấp và thứ cấp cho người tiêu dùng trung gian và cuối cùng, đồng thời cung cấp nhiều loại dịch vụ cho người sản xuất cũng như người tiêu dùng. Các hoạt động thương mại, vận chuyển và lưu trữ đảm bảo phân phối hàng hóa và dịch vụ ở nơi và khi nào cần thiết cho người tiêu dùng. Kinh doanh và dịch vụ tài chính tạo điều kiện huy động các nguồn lực và phát triển chúng vào các hoạt động của các khu vực khác nhau của nền kinh tế.
Các hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ nhìn chung đòi hỏi đầu tư vốn tương đối ít hơn so với các hoạt động trong các lĩnh vực khác. Nhưng phần lớn các hoạt động này cũng đòi hỏi không gian tương đối ít hơn cho các hoạt động của ngành dịch vụ là một lĩnh vực chuyên sâu về tri thức và đầu vào đáng kể về nguồn nhân lực là cần thiết để phát triển hầu hết các hoạt động của lĩnh vực dịch vụ.
Thực trạng phát triển một số ngành dịch vụ
Thuận lợi
Theo Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội năm 2015 và 5 năm 2011 - 2015; phương hướng, nhiệm vụ 5 năm 2016 - 2020 và năm 2016 của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 10, Quốc hội khóa XIII, ngày 20-10-2015, tăng trưởng GDP năm 2015 ước đạt hơn 6,5%, cao nhất trong 5 năm qua, vượt kế hoạch đề ra (6,2%); bình quân 5 năm đạt khoảng 5,9%/năm, trong đó công nghiệp, xây dựng tăng 6,74%/năm, nông lâm thủy sản tăng 3,01%/năm, dịch vụ tăng 6,31%/năm. Tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ trong GDP tăng từ 79,42% năm 2010 lên 82,5% năm 2015. Tỷ trọng dịch vụ trong GDP đạt khoảng 44% vào năm 2015.
Đóng góp của ngành dịch vụ vào tăng trưởng ngày càng tăng; đã tập trung phát triển các ngành dịch vụ có tiềm năng, lợi thế, có hàm lượng khoa học, công nghệ cao như công nghệ thông tin, truyền thông, logistics, hàng không, tài chính, ngân hàng, du lịch, thương mại điện tử... Mạng lưới thương mại và dịch vụ phát triển mạnh trên phạm vi cả nước, đáp ứng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội.
Ngành du lịch tiếp tục được cơ cấu lại theo hướng nâng cao chất lượng dịch vụ, tập trung đầu tư cơ sở vật chất và phát triển đa dạng các sản phẩm, nhất là tại các vùng du lịch trọng điểm. Khách quốc tế năm 2015 đạt khoảng 7,9 triệu lượt, gấp gần 1,6 lần so với năm 2010. Mở rộng miễn thị thực cho người Việt Nam định cư ở nước ngoài và công dân của nhiều nước để khuyến khích phát triển thương mại, đầu tư và du lịch.
Mạng lưới và cơ cấu đào tạo hợp lý hơn; quy mô, chất lượng và sự công bằng trong tiếp cận giáo dục được cải thiện. Ứng dụng khoa học và đổi mới công nghệ có bước tiến bộ, nhất là trong các lĩnh vực nông nghiệp, thông tin truyền thông, y tế, xây dựng. Thị trường khoa học công nghệ có bước phát triển, giá trị giao dịch tăng 13,5%/năm. Số lượng sáng chế và các giải pháp hữu ích đăng ký bảo hộ gấp gần 2,2 lần so với giai đoạn 2006 - 2010. Chỉ số đổi mới sáng tạo toàn cầu của Việt Nam năm 2015 tăng 19 bậc so với năm 2010.
Nhiều công trình hạ tầng thiết yếu về giao thông, năng lượng, thủy lợi, đô thị, thông tin truyền thông, y tế, giáo dục... được đưa vào sử dụng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, hội nhập quốc tế, tạo diện mạo mới cho đất nước. Công tác y tế dự phòng và chất lượng khám chữa bệnh được nâng lên. Giảm quá tải bệnh viện đạt những kết quả tích cực. Tập trung đầu tư xây dựng hệ thống các bệnh viện. Ứng dụng kỹ thuật hiện đại vào khám chữa bệnh đạt nhiều kết quả. Tỷ lệ tham gia bảo hiểm y tế đạt gần 75%. Chất lượng, phương thức thông tin ngày càng được đa dạng hóa, đáp ứng nhu cầu thông tin của người dân, thông tin đối ngoại và phục vụ sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước.
Các dịch vụ tài chính ngân hàng tiếp tục phát triển, đa dạng hóa và hiện đại hóa. Hoạt động xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém được đẩy mạnh. Đến tháng 9-2015, nợ xấu còn 2,9% (tháng 9-2012 là 17,43%) và đã giảm 17 tổ chức tín dụng. Các công ty tài chính, chứng khoán, bảo hiểm từng bước được cơ cấu lại; công tác kiểm tra, giám sát được tăng cường; thông tin ngày càng công khai, minh bạch; hiệu quả hoạt động được cải thiện. Thanh khoản và an toàn hệ thống được bảo đảm.
Quy mô thị trường chứng khoán tăng, mức vốn hoá thị trường cổ phiếu đạt khoảng 33% GDP và thị trường trái phiếu đạt khoảng 23% vào cuối năm 2015. 59 nước đã công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường. Quan hệ thị trường thương mại tự do với 55 quốc gia và nền kinh tế, trong đó có 15 quốc gia trong Nhóm G-20.
Khó khăn
Tuy nhiên, sự phát triển dịch vụ còn nhiều hạn chế, có tốc độ tăng thấp hơn giai đoạn trước. Các ngành dịch vụ thâm dụng tri thức, khoa học và công nghệ phát triển còn chậm. Các ngành dịch vụ mang tính chất "động lực" hay "huyết mạch", có hàm lượng tri thức cao, như tài chính-tín dụng, khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, y tế còn chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong GDP của toàn nền kinh tế. Hệ thống phân phối còn nhiều bất cập, chi phí trung gian lớn, chưa kết nối thông suốt, hiệu quả và chưa bảo đảm hài hoà lợi ích giữa các khâu từ sản xuất đến tiêu thụ; chất lượng dịch vụ còn thấp, tính chuyên nghiệp chưa cao.
Các dịch vụ khoa học và công nghệ chưa thực sự gắn kết với nhu cầu và hoạt động của các ngành kinh tế, xã hội, chậm đưa vào ứng dụng những kết quả đã nghiên cứu được. Thị trường khoa học công nghệ còn sơ khai. Cơ sở vật chất và đầu tư cho khoa học công nghệ còn chưa tương xứng. Đóng góp của khoa học công nghệ vào quá trình CNH, HĐH chưa cao. Vị trí của Việt Nam trong nền kinh tế tri thức toàn cầu là rất thấp. Những chỉ số về kinh tế tri thức (KEI) của Việt Nam đều ở nửa dưới của bảng xếp hạng. Năm 2012, chỉ số KEI của Việt Nam là 3,51 và thuộc nhóm trung bình thấp. Chỉ số sáng tạo của Việt Nam năm 2013 đạt 34,82 và xếp thứ 76 trong 141 quốc gia.
Chất lượng, hiệu quả của giáo dục và đào tạo nhìn chung còn thấp so với yêu cầu; cơ cấu đào tạo chưa hợp lý, mất cân đối về bậc học, về ngành nghề, về vùng lãnh thổ. Dịch vụ y tế còn hạn chế cả về lượng và chất. Việc bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm còn nhiều yếu kém. Tệ nạn xã hội một số nơi còn diễn biến phức tạp. Nhiều biểu hiện xấu về đạo đức, lối sống gây bức xúc trong nhân dân. Tai nạn giao thông vẫn còn nghiêm trọng; ùn tắc giao thông tại đô thị lớn khắc phục chậm. Chất lượng tín dụng chưa cao, xử lý nợ xấu và cơ cấu lại các ngân hàng thương mại cổ phần yếu kém còn nhiều khó khăn. Du lịch chưa trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử còn chậm. Bảo đảm an toàn, an ninh thông tin mạng còn nhiều bất cập. Sự gắn kết giữa công nghiệp-nông nghiệp với dịch vụ còn nhiều bất cập. Các dịch vụ đối ngoại phát triển vừa thiếu quy hoạch vừa dưới tiền năng và chưa hiệu quả, chưa phát huy hết các lợi thế và chuẩn bị tốt các điều kiện cho chủ động hội nhập.
Định hướng và mục tiêu phát triển dịch vụ trong thời kỳ hội nhập và cải cách
Trong thời gian tới, Việt Nam chủ trương đẩy mạnh tái cơ cấu gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, chuyển mạnh từ chủ yếu dựa vào xuất khẩu và vốn đầu tư sang phát triển đồng thời dựa cả vào vốn đầu tư, xuất khẩu và thị trường trong nước; Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo để nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy nghiên cứu và triển khai (R&D), nhập khẩu công nghệ mới; Thực hiện phương thức quản lý, quản trị hiện đại; Phát huy tiềm năng con người và khuyến khích tinh thần sản xuất kinh doanh của mọi người để chủ động khai thác triệt để lợi thế cạnh tranh, nâng cao giá trị gia tăng và giá trị quốc gia, tham gia có hiệu quả vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, phát triển dịch vụ có vai trò quan trọng, không chỉ trực tiếp tạo động lực phát triển, mà còn tạo lập và củng cố sự liên kết, bảo đảm đầu ra cho các ngành công-nông nghiệp và tác động lan tỏa trong toàn bộ nền kinh tế.
Vì vậy, cần phát triển dịch vụ vừa theo chiều rộng, vừa theo chiều sâu, theo hướng hiện đại, với tốc độ bình quân 7-7,5%/năm, cao hơn tốc độ tăng các khu vực sản xuất và GDP; nâng cao chất lượng và đa dạng hóa loại hình dịch vụ gắn với việc phát triển của khoa học công nghệ và vai trò của kinh tế tri thức; phát triển dịch vụ trung gian nhằm tăng cường sự kết nối bổ trợ giữa các ngành kinh tế, thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nền kinh tế. Đạt tỷ trọng dịch vụ 45% GDP vào năm 2020
Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển mạnh các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hoá, nghệ thuật, thể thao..., chất lượng cao về đào tạo nguồn nhân lực và chăm sóc sức khỏe; Đến năm 2020, khoa học và công nghệ Việt Nam đạt trình độ phát triển của nhóm các nước dẫn đầu ASEAN; đến năm 2030, có một số lĩnh vực đạt trình độ tiên tiến thế giới.
Phát triển dịch vụ cảng biển và cửa khẩu, dịch vụ vận tải với cơ cấu hợp lý, hiệu quả, nhất là khai thác dầu khí, vận tải biển, cảng biển, đóng và sửa chữa tàu biển, du lịch biển, nuôi trồng thuỷ sản; phát triển dịch vụ hậu cần nghề cá và đẩy mạnh khai thác xa bờ. Tăng thị phần vận tải đường sắt, đường biển và đường thuỷ nội địa. Nâng cao chất lượng vận tải đường bộ và đường hàng không. Tăng cường kết nối giữa các phương thức vận tải, khuyến khích phát triển vận tải đa phương thức và logistics. Gắn phát triển kinh tế biển với bảo vệ chủ quyền biển, đảo.
Tập trung phát triển một số ngành dịch vụ có lợi thế, có hàm lượng tri thức, công nghệ cao và dịch vụ kinh tế đối ngoại, như hàng không, cảng biển quốc tế, xuất khẩu lao động, xúc tiến thương mại quốc tế; viễn thông, công nghệ thông tin; tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán; thương mại điện tử, cùng các dịch vụ hỗ trợ sản xuất kinh doanh khác; dịch vụ giáo dục - đào tạo, y tế chất lượng cao, dịch vụ khoa học và công nghệ, văn hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm; Phát triển du lịch thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Khuyến khích các thành phần kinh tế đầu tư phát triển du lịch với hệ thống hạ tầng đồng bộ, hiện đại, sản phẩm đa dạng và tính chuyên nghiệp cao. Tạo mọi thuận lợi về thủ tục xuất nhập cảnh, đi lại và bảo đảm an toàn, an ninh. Đẩy mạnh xúc tiến, quảng bá, xây dựng thương hiệu du lịch Việt Nam. Khai thác hiệu quả, bền vững các di sản văn hoá, thiên nhiên, di tích lịch sử, danh lam thắng cảnh và gìn giữ vệ sinh môi trường. Phát triển các khu dịch vụ du lịch phức hợp, có quy mô lớn và chất lượng cao. Hình thành một số trung tâm dịch vụ, du lịch có tầm cỡ khu vực và quốc tế, ưu tiên phát triển du lịch biển, đảo, du lịch văn hóa, làng nghề và sinh thái…
Phát triển mạnh dịch vụ thông tin truyền thông đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh. Thực hiện cơ chế thuê dịch vụ công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước và cung cấp dịch vụ công.
Phát triển đồng bộ hệ thống phân phối bán buôn, bán lẻ. Chú trọng phát triển thương mại điện tử và xây dựng thương hiệu hàng hoá Việt Nam. Tăng cường kết nối giữa doanh nghiệp sản xuất, phân phối, các hiệp hội và cơ quan quản lý để phát triển mạnh thị trường trong và ngoài nước.
Chủ động tham gia vào mạng phân phối toàn cầu. Phát triển các dịch vụ tài chính quốc tế phù hợp cam kết về mở cửa thị trường đi kèm với cơ chế minh bạch hóa dịch vụ quản lý danh mục đầu tư, cung cấp và lưu chuyển thông tin tài chính, các dịch vụ chứng khoán phụ trợ; tăng cường minh bạch hoá và bảo hộ đầu tư, giải quyết tranh chấp minh bạch, rõ ràng và có hiệu quả; Hoàn thiện thể chế để tận dụng cơ hội và phòng ngừa, giảm thiểu các thách thức do tranh chấp quốc tế, nhất là tranh chấp thương mại, đầu tư quốc tế. Hoàn thiện pháp luật về tương trợ tư pháp phù hợp với pháp luật quốc tế.
Xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Phát triển sự nghiệp văn học, nghệ thuật, tạo mọi điều kiện cho sự tìm tòi, sáng tạo của đội ngũ văn nghệ sĩ. Đổi mới phương thức hoạt động của các hội văn học, nghệ thuật. Quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống báo chí đáp ứng yêu cầu phát triển, bảo đảm thiết thực, hiệu quả. Chú trọng công tác quản lý các loại hình thông tin trên Internet để định hướng tư tưởng và thẩm mỹ cho nhân dân, nhất là cho thanh niên, thiếu niên. Bên cạnh đó, cần phát triển và nâng cấp một số lĩnh vực dịch vụ thành ngành công nghiệp, như: công nghiệp văn hóa và giải trí, báo chí, phim ảnh…
Xây dựng nền văn hoá và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".
Ngành dịch vụ dưới tác động của đại dịch Covid-19
Dịch Covid-19 diễn biến phức tạp, làm gián đoạn hoạt động kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới; xung đột thương mại Mỹ – Trung vẫn tiếp diễn. Trong nước, thiên tai, dịch bệnh tác động không nhỏ tới các hoạt động của nền kinh tế và cuộc sống của người dân; tỷ lệ thất nghiệp, thiếu việc làm ở mức cao. Tuy nhiên, với những giải pháp quyết liệt và hiệu quả trong việc thực hiện mục tiêu kép “vừa phòng chống dịch bệnh, vừa phát triển kinh tế – xã hội”, kinh tế Việt Nam vẫn đạt kết quả tích cực với việc duy trì tăng trưởng.
Cụ thể đối với ngành dịch vụ, tổng mức bán lẻ hàng hóa và doanh thu dịch vụ tiêu dùng giảm 1,2% trong 6 tháng đầu năm 2020 so với cùng kỳ năm trước, nhưng sau đó đã phục hồi rõ rệt với tốc độ tăng 6 tháng cuối năm đạt 6,2%, đưa lĩnh vực thương mại trong nước cả năm tăng 2,6%. Tốc độ tăng trưởng của một số ngành dịch vụ thị trường như sau: Bán buôn và bán lẻ tăng 5,53% so với năm trước, đóng góp 0,61 điểm phần trăm; hoạt động tài chính, ngân hàng và bảo hiểm tăng 6,87%, đóng góp 0,46 điểm phần trăm; ngành vận tải, kho bãi giảm 1,88%, làm giảm 0,06 điểm phần trăm; ngành dịch vụ lưu trú và ăn uống giảm 14,68%, làm giảm 0,62 điểm phần trăm.
Xem thêm: Dịch vụ chứng nhận ISO 45001 giúp doanh nghiệp đảm bảo an toàn sức khỏe nghề nghiệp cho người lao động trong đại dịch covid >>
Bình luận