Hiệp định CPTPP, EVFTA và RCEP: Các cam kết về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp
Ngày 15/11/2020, Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) đã chính thức được ký kết trong khuôn khổ Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ 37 tại Hà Nội. Sau Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – Liên minh Châu Âu (EVFTA), đây là Hiệp định sẽ hình thành khu vực kinh tế lớn nhất từ trước đến nay, với GDP chiếm tới 32% tổng GDP toàn cầu, khoảng 32.000 tỷ USD, chiếm 47,5% dân số thế giới và được kỳ vọng sẽ giúp thúc đẩy mạnh việc hình thành cộng đồng kinh tế ASEAN 2025.
Trong hai Hiệp định CPTPP và EVFTA thuế quan được cam kết xoá bỏ ở mức cao, ví dụ trong CPTPP 65.8% số dòng thuế có thuế suất về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực, trong khi đó EVFTA 48.5% dòng thuế của Việt Nam sẽ về 0% ngay khi Hiệp định có hiệu lực và sau từ 3-11 năm, tất cả các dòng thuế sẽ dần về 0%.
Nếu so với CPTPP và EVFTA, Hiệp định RCEP có tỷ lệ xóa bỏ thuế quan Việt Nam dành cho ASEAN ở mức 90,3%, Australia và New Zealand đạt 89,6%, Nhật Bản và Hàn Quốc 86,7%, Trung Quốc là 85,6%. Việc tự do hoá thuế quan với các nước ASEAN đã được các nước trong khu vực thực hiện trong suốt hơn 20 năm qua, do vậy cam kết này sẽ không tạo cú sốc về giảm thuế nhập khẩu với Việt Nam.
Hàng rào thuế quan dần được dỡ bỏ có thể dẫn tới kịch bản hàng rào kỹ thuật bằng cách này hay cách khác sẽ được các nước áp dụng nhiều hơn để bảo vệ hàng hoá trong nước, hơn thế nữa các hàng rào này sẽ được dựng lên một cách tinh vi và phức tạp hơn. Trước đây các nước trên thế giới đã chứng kiến khi Thoả thuận thương mại và thuế quan (GATT) được hình thành, từ năm 1947 đến năm 1995 thuế quan đã giảm từ 40% xuống 4%, nhưng trong thời gian đó các hàng rào phi thuế quan tăng cao hơn rất nhiều so với thời điểm trước GATT 1947. Các hàng rào này không thể cân đong đo đếm và tính toán định lượng để xác định thiệt hại về mặt kinh tế mà các nước gặp phải. Đó là lý do ngay từ Vòng đàm phán Tokyo năm 1973, hàng rào phi thuế quan đã trở thành một chủ đề được các nước quan tâm và bắt đầu được đưa vào đàm phán. Đây cũng chính là khởi đầu cho các Hiệp định về hàng rào kỹ thuật trong thương mại (Hiệp định TBT) và Hiệp định về vệ sinh, an toàn, kiểm dịch động thực vật (SPS) của WTO sau này. Hiệp định TBT của WTO yêu cầu các nước cân bằng việc xây dựng các biện pháp kỹ thuật trên cơ sở lợi ích hợp pháp để không tạo ra các rào cản không cần thiết cho thương mại thế giới.
Xét về cấu trúc, mặc dù đều căn cứ trên cam kết nền về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, thủ tục đánh giá sự phù hợp của Hiệp định TBT/WTO nhưng CPTPP, EVFTA và RCEP có các chương liên quan đến TBT không hoàn toàn tương đồng. Chương TBT của Hiệp định CPTPP có 13 điều và 7 Phụ lục, đây là Hiệp định thương mại tự do khu vực đầu tiên mà Việt Nam cam kết có thêm các Phụ lục về sản phẩm, hàng hoá cụ thể. Trong khi đó Chương TBT của EVFTA gồm có 11 điều khoản và không có phụ lục nào. Chương Tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp (thực chất cũng là Chương TBT, sau đây gọi là Chương TBT) của RCEP có 14 điều khoản và không có phụ lục kèm theo.
Chương TBT của CPTPP, EVFTA và RCEP có 8 điều khoản tương tự gồm Mục tiêu; Phạm vi áp dụng; Định nghĩa; Tiêu chuẩn; Quy trình đánh giá sự phù hợp; Minh bạch hoá; Hợp tác và thuận lợi hoá thương mại; Thực thi và 12 điều khoản khác nhau, cụ thể trong CPTPP có các điều khoản về Tích hợp với Hiệp định TBT, Giai đoạn phù hợp của quy chuẩn kỹ thuật và thủ tục đánh giá sự phù hợp, Trao đổi thông tin và thảo luận kỹ thuật, Uỷ ban TBT, Điểm hỏi đáp, Giải quyết tranh chấp và các Phụ lục (rượu vang và rượu chưng cất; sản phẩm công nghệ thông tin và truyền thông; dược phẩm; mỹ phẩm; trang thiết bị y tế; công thức độc quyền cho phụ gia thực phẩm và thực phẩm bao gói sẵn; sản phẩm hữu cơ), trong khi đó EVFTA lại có các điều khoản cam kết về Khẳng định Hiệp định TBT của WTO, Quy chuẩn kỹ thuật, Hậu kiểm, Ghi dấu và ghi nhãn, Tham vấn, Thực thi. RCEP có các điều khoản tiêu chuẩn và giải quyết tranh chấp.
Về tiêu chuẩn quốc tế, Chương TBT của CPTPP, EVFTA và RCEP đều khẳng định vai trò của tiêu chuẩn, hướng dẫn và khuyến nghị quốc tế trong việc xoá bỏ rào cản không cần thiết cho thương mại, trong đó đều coi Quyết định mà Uỷ ban TBT/WTO ban hành về các nguyên tắc xây dựng tiêu chuẩn quốc tế là căn cứ để xác định một tiêu chuẩn thế nào là một tiêu chuẩn quốc tế. Quyết định này đưa ra 6 nguyên tắc để xác định tiêu chuẩn quốc tế giúp các nước sử dụng làm căn cứ khi xây dựng quy chuẩn kỹ thuật hoặc thủ tục đánh giá sự phù hợp của mình.
Riêng Chương EVFTA/TBT bổ sung quy định liên quan tới hài hoà tiêu chuẩn trong đó lấy tiêu chuẩn quốc tế làm nền tảng để xem xét việc hài hoà. Ngoài ra còn yêu cầu tiêu chuẩn khi được quy định thành bắt buộc áp dụng trong quy chuẩn kỹ thuật hoặc thủ tục đánh giá sự phù hợp sẽ phải thực hiện minh bạch hoá.Yêu cầu này cũng chặt chẽ và chi tiết hơn so với Hiệp định TBT/WTO.
Trong khi đó, riêng Hiệp định RCEP tách điều khoản liên quan tới tiêu chuẩn thành 2 điều khoản gồm Tiêu chuẩn quốc tế và tiêu chuẩn. Về cam kết tiêu chuẩn, RCEP khuyến khích các nước khi có điều chỉnh các nội dung của tiêu chuẩn quốc tế trong tiêu chuẩn quốc gia cung cấp thông tin về sự điều chỉnh nội dung và cấu trúc tiêu chuẩn, các nội dung điều chỉnh không được tạo ra các rào cản không cần thiết cho thương mại quốc tế. Các loại phí đi kèm với việc cung cấp thông tin trong nước và nước ngoài phải tương tự nhau.
Về quy chuẩn kỹ thuật, Chương EVFTA/TBT và RCEP/TBT đều có một điều khoản riêng về quy chuẩn kỹ thuật quy định chi tiết hơn các điều 2.2, 2.7, Điều 13 của Hiệp định TBT/WTO. Quy chuẩn kỹ thuật phải được xây dựng căn cứ trên tiêu chuẩn quốc tế, riêng EVFTA nêu rõ như tiêu chuẩn của Tổ chức Tiêu chuẩn hoá quốc tế (ISO), Uỷ ban Kỹ thuật điện quốc tế (IEC), Liên minh Viễn thông quốc tế (ITU) và Ủy ban Tiêu chuẩn thực phẩm Codex (CAC), trừ khi những tiêu chuẩn này không phù hợp với mục tiêu hợp pháp, như bảo vệ sức khoẻ, an toàn, bảo vệ môi trường… Cụ thể hơn so với TBT/WTO, EVFTA/TBT yêu cầu phải giải thích lý do vì sao tiêu chuẩn quốc tế đó được coi là không phù hợp và RCEP/TBT yêu cầu phải giải thích lý do nếu không sử dụng tiêu chuẩn quốc tế làm căn cứ.
Chương EVFTA/TBT và RCEP/TBT đều yêu cầu chấp nhận tương đương quy chuẩn kỹ thuật là một quy định tại Điều 2.7 của Hiệp định TBT/WTO tuy nhiên việc yêu cầu chấp nhận tương đương hay giải thích lý do trong trường hợp không chấp nhận tương đương quy chuẩn kỹ thuật được quy định cụ thể hơn trong EVFTA/TBT và RCEP/TBT.
RCEP/TBT còn quy định cụ thể về khoản thời gian phù hợp từ khi ban hành tới khi có hiệu lực của quy chuẩn kỹ thuật. Khoảng thời gian này được hiểu là không ít hơn 6 tháng trừ khi không phù hợp để thực hiện các mục tiêu hợp pháp. Đây cũng là quy định đã được cam kết trong Chương TBT của Hiệp định Thương mại hàng hóa ASEAN (ATIGA). Trong CPTPP/TBT, nội dung này được quy định tại điều khoản về giai đoạn phù hợp.
Ngoài ra, Chương RCEP/TBT còn bổ sung quy định về việc cung cấp thêm thông tin, bài nghiên cứu hoặc tài liệu (trừ tài liệu mật) làm cơ sở xây dựng quy chuẩn kỹ thuật và quy định việc áp dụng quy chuẩn kỹ thuật quốc gia với quy chuẩn kỹ thuật địa phương.
CPTPP/TBT không có điều khoản riêng về quy chuẩn kỹ thuật, thay vào đó các nghĩa vụ liên quan tới quy chuẩn kỹ thuật được đưa vào các điều khoản khác nhau của Chương, ví dụ quy định minh bạch hoá, quy định giai đoạn thực thi… đặc biệt quy chuẩn kỹ thuật là một đối tượng quan trọng của nghĩa vụ minh bạch hoá, do vậy việc thực hiện minh bạch hoá đối với quy chuẩn kỹ thuật được quy định trong CPTPP chặt chẽ và cụ thể hơn nhiều so với TBT/WTO. Ví dụ nghĩa vụ quy định công bố tất cả dự thảo quy chuẩn kỹ thuật, dự thảo bản sửa đổi bổ sung, văn bản đã ban hành của các dự thảo này theo yêu cầu thông báo của Hiệp định TBT/WTO hoặc Chương CTPPP/TBT trên trang công báo hoặc website chính thức riêng, hay quy định phải thông báo cả những quy chuẩn kỹ thuật phù hợp với nội dung kỹ thuật của tiêu chuẩn, hướng dẫn hoặc khuyến nghị quốc tế có khả năng tác động đáng kể lên thương mại, trong khi đó Điều 2.5 của Hiệp định TBT/WTO quy định quy chuẩn kỹ thuật nếu được xây dựng căn cứ trên tiêu chuẩn quốc tế sẽ được xem là không tạo ra rào cản không cần thiết đối với thương mại quốc tế và đồng nghĩa không phải thực hiện nghĩa vụ minh bạch hoá.
Về đánh giá sự phù hợp, Điều 6 về đánh giá sự phù hợp của CPTPP/TBT có 16 khoản trong khi đó Điều 6 của EVFTA/TBT có 6 khoản và RCEP/TBT có 10 khoản. Chương TBT của cả CPTPP, EVFTA và RCEP đều yêu cầu nếu từ chối thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp phải giải thích lý do cụ thể về việc từ chối. Thêm vào đó RCEP thừa nhận tầm quan trọng của việc thừa nhận lẫn nhau kết quả đánh giá sự phù hợp nhằm tăng cường tính hiệu quả, tránh trùng lặp và đảm bảo hiệu quả chi phí của hoạt động đánh giá sự phù hợp.
CPTPP/TBT yêu cầu phí đánh giá sự phù hợp phải được tính toán dựa trên chi phí xấp xỉ của dịch vụ và không được bắt doanh nghiệp phải hợp pháp hoá lãnh sự hồ sơ đánh giá sự phù hợp và nộp các loại phí liên quan.Trong khi đó, EVFTA nhấn mạnh nguyên tắc Đối xử quốc gia (NT) và Đối xử tối huệ quốc (MFN) trong việc áp dụng các loại phí về đánh giá sự phù hợp sản phẩm trong nước với nước ngoài và với nước thứ ba. RCEP không có điều khoản quy định liên quan tới phí đánh giá sự phù hợp.
CPTPP/TBT yêu cầu không phân biệt đối xử giữa các tổ chức đánh giá sự phù hợp trong nước và tổ chức đánh giá sự phù hợp trên lãnh thổ của nước thành viên CPTPP. Ngoài ra CPTPP cũng quy định chặt chẽ những điều không được cấm, không được yêu cầu đối với hoạt động đánh giá sự phù hợp. Ví dụ không được yêu cầu tổ chức đánh giá sự phù hợp phải nằm trên lãnh thổ của mình hoặc phải có văn phòng đại diện tại lãnh thổ của mình, không được cấm áp dụng các hiệp định thừa nhận lẫn nhau để công nhận, cấp phép thừa nhận tổ chức đánh giá sự phù hợp nằm ngoài nước. Bên cạnh đó cũng không được từ chối chấp nhận kết quả đánh giá sự phù hợp vì các lý do như tổ chức công nhận tổ chức đánh giá sự phù hợp thực hiện các hoạt động đánh giá nằm trên quốc gia có nhiều tổ chức công nhận, là một tổ chức phi chính phủ, không có văn phòng đại diện tại nước mình…
EVFTA/TBT chủ yếu tập trung quy định các cơ chế giúp thúc đẩy, tạo thuận lợi cho việc chấp nhận kết quả đánh giá sự phù hợp như việc căn cứ vào công bố phù hợp, thực hiện các thoả thuận tự nguyện giữa các tổ chức đánh giá sự phù hợp, chỉ định tổ chức đánh giá sự phù hợp…
RCEP thừa nhận các cơ chế nhằm tạo thuận lợi cho việc thừa nhận kết quả đánh giá sự phù hợp như các thỏa thuận, hiệp định thừa nhận lẫn nhau MRA, cơ chế chỉ định, cơ chế thừa nhận đơn phương, cơ chế công bố phù hợp của nhà sản xuất…Ngoài ra RCEP yêu cầu không phân biệt đối xử giữa tổ chức đánh giá sự phù hợp trong nước và nước đối tác trong RCEP và phải giải thích lý do nếu không cho phép các tổ chức đánh giá sự phù hợp của nước đối tác trong RCEP tham gia vào thực hiện đánh giá sự phù hợp.
Các nội dung về tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật hay thủ tục đánh giá sự phù hợp trong các Chương TBT của CPTPP, EVFTA và RCEP đều được cam kết với mục đích tạo thuận lợi cho thương mại và dỡ bỏ các rào cản kỹ thuật không cần thiết đối với thương mại trong khu vực và quốc tế. Cam kết TBT trong các Hiệp định thương mại tự do là một cam kết không thể thiếu trong các Hiệp định này giúp bảo vệ lợi ích hợp pháp của các nước đối với sự an toàn, sức khỏe, môi trường… của nước mình mà không ngăn trở dòng chảy thương mại chung./.
Tham khảo thêm các dịch vụ mà ISOCERT cung cấp:
Nguồn: Báo Chất lượng và Cuộc sống. - ThS. Tôn Nữ Thục Uyên - Phó Giám đốc phụ trách Văn phòng TBT Việt Nam
Bình luận